Thứ Hai, 30 tháng 12, 2013
LỜI CHÚC ĐẦU NĂM
LỜI CHÚC ĐẦU NĂM
Nâng cốc chúc nhau rộn khoảng trời
Hồn quê điểm tựa chẳng chơi vơi
Vòng tay mở rộng thêm nồng đượm
Ánh mắt vươn xa mãi sáng ngời
Ấm áp tình người xua tuyết phủ
Vừng vàng ý chí vượt sương rơi
Hòa trong tiếng pháo mừng Năm mới
khúc hát lời thơ thắm cuộc đời!
Bùi Nguyệt
Thứ Hai, 23 tháng 12, 2013
GIÁNG SINH AN LÀNH
Giáng Sinh xin chúc bạn gần xa
Năm Mới an khang đẹp cảnh nhà
Khúc nhạc lời thơ hòa quyện mãi
Cầu xuân nối nhịp nở muôn hoa!
Bùi Nguyệt, CHLB Đức
Chủ Nhật, 22 tháng 12, 2013
Báo Quê Hương
http://quehuongonline.vn/VietNam/Home/Nguoi-Viet-o-nuoc-ngoai/Tin-cong-dong/2013/11/4E24D41D/
|
ĐI ĂN CƯỚI VỢ CŨ – LỜI BÌNH CỦA ĐỖ TRỌNG KHƠI & LỜI “NÓI LẠI” CỦA NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM
ĐI ĂN CƯỚI VỢ CŨ – LỜI BÌNH CỦA ĐỖ TRỌNG KHƠI & LỜI “NÓI LẠI” CỦA NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM
Được đăng bởi nguyentrongtao vào lúc: 9:01 sáng ngày 21/12/2013 0 Bình luận
ĐI ĂN CƯỚI VỢ CŨ
Vợ cũ đi lấy chồng
Mời mình về ăn cưới
Mình bàn với vợ mới
Có đi không mình ơi!
Mời mình về ăn cưới
Mình bàn với vợ mới
Có đi không mình ơi!
Vợ mới cười rất tươi
“Chị mời thì nên đến
Hai đứa mình cùng đi
Để tỏ tình thân mến!”
“Chị mời thì nên đến
Hai đứa mình cùng đi
Để tỏ tình thân mến!”
Vợ cũ mặc rất đẹp
Nhìn thấy chạy đến chào
Chồng mới của vợ cũ
Ra tận nơi đón vào…
Nhìn thấy chạy đến chào
Chồng mới của vợ cũ
Ra tận nơi đón vào…
Ôi cuộc tình rổ rá
Mà cưới vui bất ngờ
Mọi người tranh nhau hát
Mình cũng lên đọc thơ
Mà cưới vui bất ngờ
Mọi người tranh nhau hát
Mình cũng lên đọc thơ
Trong làn khói lơ mơ
Mình ghé tai hỏi vợ
“Nếu cuộc tình này vỡ
Mình có mời anh không?”
Mình ghé tai hỏi vợ
“Nếu cuộc tình này vỡ
Mình có mời anh không?”
(theo BLOG Dân trí)
BÙI HOÀNG TÁM
BÙI HOÀNG TÁM
Lời bình của ĐỖ TRỌNG KHƠI:
Căn cứ qua tiểu sử tác giả và nếp sống
văn hoá, tập quán, thái độ tình cảm con người trong gia đình truyền
thống Việt Nam thì có thể khẳng định: bối cảnh không gian trong thơ “Đi
ăn cưới vợ cũ” là hư cấu. Với tính mực thước, lễ độ con người ta khó
chấp nhận một hoàn cảnh, không khí lễ cưới diễn ra như thế. Vậy vì sao
bài thơ này lại chiếm được cảm tình của nhiều đọc giả ở các lứa tuổi, vị
trí xã hội? (Kết quả theo Google là 8.430.000 lượt truy cập bài thơ
này). Câu trả lời và qua đó sẽ phản ánh nên phần nào thái độ tiếp nhận
lối sống mới của con người Việt Nam thời @ chăng?
Trong đời sống thuần phong mỹ tục của
gia đình người Việt Nam thì lễ cưới là một trong những nghi thức được tổ
chức long trọng bậc nhất. Tên nghi thức được đặt “Lễ rước dâu”. Chữ
“rước” ở đây là cách xác định tính chất tôn nghiêm, ngang bậc với các
nghi thức tôn nghiêm tôn giáo khác, như lễ rước kiệu thần thánh nơi đình
chùa. Một đằng chỉ việc thờ phụng thánh thần, một đằng việc duy trì,
thờ phụng dòng giống tổ tiên. Thơ văn xưa nay miêu tả về việc này thảy
đều là các tác phẩm chữ nghĩa chuẩn mực, chân thực và trang trọng. Vậy
mới cho hay, bài thơ “Đi ăn cưới vợ cũ” của nhà thơ Bùi Hoàng Tám là một
tiếng nói mới mẻ, riêng biệt và nó có tính cách phản phong. Với một
giọng thơ tưng tửng đùa chơi, giễu nhại, các nhân vật vợ, chồng mới, cũ
đến với lễ cưới vui vẻ, cứ như trong lòng họ chưa hề chịu nỗi xót xa
nào. Họ vốn là vợ chồng, nghĩa là cũng từng yêu thương, đầu gối tay ấp,
rồi tan vỡ và hẳn không thể nói, lúc đối diện cảnh tan vỡ, phân ly cõi
lòng không đau đớn. Vậy, vết thương lòng xưa đâu mà giờ đây chỉ thấy,
với người vợ: “Vợ cũ mặc rất đẹp/ Trông thấy chạy đến chào…”, người
chồng cũ: “Mọi người tranh nhau hát/ Mình cũng lên đọc thơ” Và đặc biệt,
khổ kết bài sự tếu táo, giễu chơi đã được đẩy tới đỉnh, như lời dự báo:
“Trong làn khói lơ mơ/ Mình ghé tai hỏi vợ/ Nếu cuộc tình này vỡ/ Mình
có mời anh không?”. Thật chông chênh, tình vợ chồng như thế khác nào
những cuộc tình sống thử khá phổ biến của lớp sinh viên ngày nay, nó
cũng từa tựa cách chơi trò vợ chồng của trẻ con nơi chòm xóm hồi thơ ấu.
Như trên khẳng định, tác giả đã hư cấu
một không gian, không khí buổi lễ cưới không có thật nhưng nó vẫn hiện
diện sinh động như thật và bởi thế nó đã tìm được sự tương thích của
đông đảo bạn đọc. Chính vì, qua thái độ tiếp nhận hoàn cảnh mới một cách
nhẹ nhàng, tự nhiên vô tư của các nhân vật vợ, chồng cũ, mới kia đã
chạm trúng vào niềm mong muốn được cởi bỏ những giàng buộc lễ giáo
truyền thống cho một phong cách sống mới, với những chuẩn mực giá trị đã
nhiều khác biệt của con người trẻ tuổi thời @.
Nếu hoạ hình ảnh biểu trưng cho một bộ
phận không nhỏ con người và các gia đình Việt Nam ngày nay, có thể hình
dung đó là một gương mặt đầy bất an, thiếu hình mẫu lý tưởng, thiếu cơ
sở nền tảng cần cho sự bền vững nhưng nó lại đang hồ hởi được đánh chìm
mình trong cơn thèm khát thoả mãn các nhu cầu sống cá thể và tính cá thể
đã được đẩy tới mức khiến nó trở nên trơ lỳ, vô cảm trước các giá trị
truyền thống, nó luôn trong tư thế hân hoan tận hưởng và tất nhiên, để
trạng thái sống đó thành một bản năng, hay một dạng ý thức mạnh mẽ thì
đồng thời nó đòi hỏi đối tác phải biết xoá dấu quá khứ. Mỗi bước chân là
một lãng quên! Đấy chính là thái độ, tính cách phản phong, phản kháng
lại giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục hằng được xác lập đã bao thời.
Và đây cũng chính là nét bút hoạ thi ca
đã phục dựng bức tranh “Đi ăn cưới vợ cũ” cho một thế hệ, thậm chí một
thời đại đang tự “tiêu” mình trong canh bài kỹ trị, vật chất, dục tính
bản năng, của nhà thơ Bùi Hoàng Tám.
1/12/2013
LỜI “NÓI LẠI” CỦA NHÀ THƠ BÙI HOÀNG TÁM
LI HÔN LÀ TIẾN BỘ KHỔNG LỒ CỦA NHÂN LOẠI!
Đỗ Trọng Khơi là một người bạn của mình ở Thái bình. Cách đây mấy
hôm, Khơi có gửi cho mình bài này. Đã định nói lại với Khơi nhưng bận
“cày cuốc” cho báo TẾT. Hôm nay thấy Khơi đăng trên trang Web bác Nguyễn
Trọng Tạo, đành “nói lại cho rõ” với Khơi.
Dưới đây là đôi lời nói lại của Bùi Hoàng Tám.
Phải thừa nhận, đây là bài viết khá công phu, nghiêm túc và có chiều sâu của một người từng trải.
Tuy nhiên, cái sai cơ bản trong tư duy của Đỗ Trọng Khơi là ở chỗ như
nhiều người cùng thế hệ, Khơi không (hoặc chưa) hiểu rằng LI HÔN là
bước tiến khổng lồ của nhân loại trong cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ.
Khi vì lý do gì đó không còn ở được với nhau thì LI HÔN chính là sự
giải phóng cho nhau.
Lễ giáo phong kiến và giờ đây vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi trên thế
giới, đặc biệt là những dân tộc theo đạo Hồi, phụ nữ bỏ chồng bị coi là
tội tày đình, đáng “cạo đầu, bôi vôi”, thậm chí ném đá đến chết.
Đã có biết bao nhiêu phụ nữ phải cam chịu hết cả cuộc đời mình trong cái vòng kim cô tù đày đó.
Đã có biết bao số phận sống trong tủi hờn, nước mắt và cả máu…
Ở đây, Khơi chỉ mới nhìn LI HÔN bằng cái nhìn bi quan dưới cái bình
phong “truyền thống”, chấp nhận cái gọi là “sự bền vững” bằng mọi giá,
kể cả tù ngục.
Tóm lại như đã nói ở trên, Đỗ Trọng Khơi không (hoặc chưa) hiểu được
rằng LI HÔN chính là bước tiến bộ khổng lồ trong cong cuộc giải phóng
con người nói chung, đặc biệt là với phụ nữ nói riêng.
Về bút pháp, Đỗ Trọng Khơi cho rằng “Với một giọng thơ tưng tửng đùa
chơi, giễu nhại, các nhân vật vợ, chồng mới, cũ đến với lễ cưới vui vẻ,
cứ như trong lòng họ chưa hề chịu nỗi xót xa nào. Họ vốn là vợ chồng,
nghĩa là cũng từng yêu thương, đầu gối tay ấp, rồi tan vỡ và hẳn không
thể nói, lúc đối diện cảnh tan vỡ, phân ly cõi lòng không đau đớn”.
Có thể nói, Đỗ Trọng Khơi đã quá thật thà bởi văn chương, đến một tầm
nào đó mới nói về sự đau đớn, xót xa bằng cái giọng “tưng tửng và diễu
nhại”. Nói “tưng tửng và diễu nhại” nhưng đằng sau đó là sự xót xa…
Có một điều mà hình như Đỗ Trọng Khơi không nhận thấy, đó là lòng nhân ái và sự thể tất.
Trong cuộc li hôn, không ai không có lỗi. Khi cuộc tình đã tan vỡ,
xin hãy gạt bỏ những tức tối, thậm chí hận thù mà hãy dành cho nhau niềm
mong mỏi tốt đẹp.
21/12/2013
Theo nguon: bloc Nguyen trong Tao
ĐEM HONG KỶ NIỆM NGÀY XƯA – Trần Vân Hạc
Trần Vân Hạc(Cảm nhận khi đọc bài thơ: “Phơi áo” của nhà thơ Nguyễn Hưng Hải)
PHƠI ÁO
Ướt đâu mà áo mang phơi
Phơi là phơi lại cái thời Trường Sơn
Phơi là phơi nỗi cô đơn
Bao năm ai mất ai còn ở đâu
Rừng xanh áo lính nhợt mầu
Phơi là để nhớ ngày sau còn tìm
Trường Sơn bảy nối, ba chìm
Phơi là phơi những cái nhìn dửng dưng
Ba lô cõng đến chồn lưng
Phơi là phơi nỗi căng chùng mưa rơi
Áo ôm lấy những cuộc đời
Đi vào lửa đạn vẫn cười như không
Nhìn ai phơi áo cho chồng
Lại thương đêm lạnh nỗi lòng Trường Sơn
Bây giờ ai tính thiệt, hơn
Ai còn phơi lại áo sờn chiều mưa
Phơi là để nhớ ngày xưa
Để không quên những giao thừa bom rung
Để còn thương nhớ sau lưng
Để mai còn biết thẹn thùng ở đâu
Để còn nhắc với muôn sau
Áo Trường Sơn dẫu bạc màu vẫn phơi.
Nguyễn Hưng Hải
(Rút trong tập: Chiều mưa hai đứa đợi tàu, NXB Quân đội Nhân dân, năm 2013)
Đôi lời của Trần Vân Hạc:
Chỉ một hình tượng nghệ thuật: “Phơi áo”
nhưng đã đem lại cho người đọc biết bao cung bậc của cảm xúc, ấm lại
những ký ức về một thời chiến tranh với bao hiểm nguy đau thương mất mát
nhưng những chiến sĩ của chúng ta vẫn anh dũng, kiên cường, hy sinh vì
đất nước vô cùng tự nguyện, vô tư, trong sáng và cao đẹp. Không những
thế nắng ấm mặt trời còn làm ấm thêm nghĩa tình, lòng biết ơn và cả văn
hóa ứng xử với những người lính trở về sau cuộc chiến.
“Ướt đâu mà áo mang phơi/ Phơi là phơi
lại cái thời Trường Sơn/ Phơi là phơi nỗi cô đơn/ Bao năm ai mất ai còn ở
đâu”. “Phơi áo” chỉ là cái cớ, hình tượng thơ gợi bao hoài niệm, nhớ
khôn nguôi những kỷ niệm chiến trường năm xưa cùng bao đồng đội người
còn, người mất, người có lẽ mãi không bao giờ tìm được thông tin hoặc
hài cốt…. Chiến tranh vốn khốc liệt như thế đấy, bao người con ưu tú của
Mẹ Việt Nam vĩnh viễn ra đi, bao nhiêu người trở về thầm lặng giữa đời
thường, chưa nói bao nhiêu người còn mang trong mình di chứng của chiến
tranh, những thiệt thòi không kể xiết. Bởi vậy “phơi áo” còn “để nhớ
ngày sau còn tìm”, tìm lại những năm tháng đau thương và anh dũng của
dân tộc, tìm lại chính mình, biết trân trọng những gì có được hôm nay,
tri ân xương máu, công sức của bao người đã vì nước quên thân. Câu thơ:
“Phơi là phơi những cái nhìn dửng dưng” như xoáy và lòng người, nhắc nhở
những thế hệ kế tiếp phải có thái độ ứng xử đúng mức với công lao của
những người vì đất Việt thân yêu này đã anh dũng ra trận, hy sinh không
màng danh lợi “Áo ôm lấy những cuộc đời/ Đi vào lửa đạn vẫn cười như
không”. Qua mỗi lần “phơi áo”, bài thơ lại ngân lên những hồi chuông
vang vọng: “Phơi là để nhớ ngày xưa/ Để không quên những giao thừa bom
rung/ Để còn thương nhớ sau lưng”. Đặc biệt “phơi” để: “Để mai còn biết
thẹn thùng ở đâu/ Để còn nhắc với muôn sau/ Áo Trường Sơn dẫu bạc màu
vẫn phơi”. Khi con người còn biết “thẹn” với lương tâm, biết “thẹn” với
quá khứ oai hùng của dân tộc thì mới biết trân trọng, nâng niu những gì
đã có và phấn đấu vì một ngày mai tươi sáng hơn, hòa bình, hạnh phúc,
công bằng và bác ái. Mầu xanh áo lính ấy như một ẩn dụ cùng hình tượng
“phơi áo” như nhịp cầu nối liền quá khứ, hiện tại và tương lai. Áo
Trường Sơn là “mầu áo chú bộ đội”, mầu áo của lính chiến, mầu áo của một
thời đạn bom, một thời gian lao không thể nào quên của cả một dân tộc
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, một vật dụng tưởng như đơn sơ bình
thường mà chứa đựng bao nhiêu tình đời và cũng nặng trĩu bao nhiêu tâm
sự nhân thế, vì vậy mà “Phơi áo” trở thành một tứ thơ khá độc đáo. Câu
thơ: “Nhìn ai phơi áo cho chồng, Lại thương đêm lạnh nỗi lòng Trường
Sơn” khiến người đọc thấm thía, xa xót. Bao hy sinh chịu đựng đâu phải
chỉ của người lính mà là của cả những người phụ nữ một thời chờ đợi…
Chiếc áo như một lời nhắc nhở, một nhân chứng của lịch sử hào hùng và
đau thương, ai nỡ nào quên cho dù cuộc sống hôm nay có hối hả đến đâu
thì chiếc áo dù cũ cũng cho ta cái giật mình rất nhân văn!
Bài thơ lục bát khá nhuần nhụy trong vần
điệu, nhịp nhạc cùng những hình tượng nghệ thuật chuyên chở bao điều
lớn lao về nhân tình thế thái, khơi dậy trong lòng mỗi người bao hoài
niệm, trăn trở và lương tri nhưng nên chăng nhà thơ cô đọng hơn, tinh
luyện hơn nữa để mỗi người đọc cũng được “hít thở”, được sống cùng quá
khứ hào hùng và bi tráng của dân tộc và tự soi mình, có thể bài thơ sẽ
đạt được những hiệu quả thẩm mỹ hơn chăng.
Hà Nội 12. 2013
Theo nguon Vanhac.org
Thứ Ba, 17 tháng 12, 2013
Thơ Xướng - Họa
Ảnh Minh Hải, CHLB Đức
Bài xướng
Bài xướng
LỜI TRĂNG !
(Mượn trăng của anh Minh Hải nhá )
Trăng quầng muốn nhắn nhủ gì đây ?
Sáng bạc trời đêm giữa chốn này
Có phải ngày vui vừa gặp mặt....
Hay là năm cũ sắp chia tay ?
Thời gian mỗi phút càng vơi đọng
Kỷ niệm ngàn Thu mãi chất đầy
Mừng dịp NOEL cùng thoả nhé
Ghi vào ký ức nhạc tình say !!!
Lê Hoài Phương
Berlin 17-12-13
Tứ Thập Lục Phương
------------
Bài họa
TRĂNG ĐÁP
Rất vui hội ngộ ở nơi đây
Trăng muốn sẻ chia ánh sáng này
Với bạn tâm giao tìm nét ngọc
Cùng người tri kỷ mở vòng tay
Thời gian đắp đổi cho dù khuyết
Quy luật vần xoay vẫn cứ đầy
Ngày Chúa giáng sinh đang kế cận
Rượu mừng Năm mới thỏa lòng say.
Bùi Nguyệt, Chemnitz
----------
ĐÊM TRĂNG CẦU NGUYỆN
Trăng vàng lặng lẽ trả về đây
Mảnh tuyết sầu đan ngõ mộng này
Lá xõa bên đường tơi ngập nẻo
Hoa cười giữa phố lạnh tràn tay
Mùa thơ uống nửa chung tình cạn
Cõi ảo vờn nguyên ngấn lệ đầy
Trải giọng kinh cầu tan lễ Chúa
Đêm tàn rượu tiễn khách còn say.
Dĩ Lang
(Mượn trăng của anh Minh Hải nhá )
Trăng quầng muốn nhắn nhủ gì đây ?
Sáng bạc trời đêm giữa chốn này
Có phải ngày vui vừa gặp mặt....
Hay là năm cũ sắp chia tay ?
Thời gian mỗi phút càng vơi đọng
Kỷ niệm ngàn Thu mãi chất đầy
Mừng dịp NOEL cùng thoả nhé
Ghi vào ký ức nhạc tình say !!!
Lê Hoài Phương
Berlin 17-12-13
Tứ Thập Lục Phương
------------
Bài họa
TRĂNG ĐÁP
Rất vui hội ngộ ở nơi đây
Trăng muốn sẻ chia ánh sáng này
Với bạn tâm giao tìm nét ngọc
Cùng người tri kỷ mở vòng tay
Thời gian đắp đổi cho dù khuyết
Quy luật vần xoay vẫn cứ đầy
Ngày Chúa giáng sinh đang kế cận
Rượu mừng Năm mới thỏa lòng say.
Bùi Nguyệt, Chemnitz
----------
ĐÊM TRĂNG CẦU NGUYỆN
Trăng vàng lặng lẽ trả về đây
Mảnh tuyết sầu đan ngõ mộng này
Lá xõa bên đường tơi ngập nẻo
Hoa cười giữa phố lạnh tràn tay
Mùa thơ uống nửa chung tình cạn
Cõi ảo vờn nguyên ngấn lệ đầy
Trải giọng kinh cầu tan lễ Chúa
Đêm tàn rượu tiễn khách còn say.
Dĩ Lang
VÁ LẠI VẦNG TRĂNG
VÁ LẠI VẦNG TRĂNG
“ Xé toạc vầng trăng cho thấu tình đời”*
Câu thơ của bạn mà em được tặng
Em mải miết tìm nơi đất khách
Lên thác xuống ghềnh trong vất vả đắng cay
Tuyệt vời thay cho đến hôm nay
Nơi quê Mẹ em trở về có được
Những tháng ngày ngập tràn hạnh phúc
Nắng hanh hao tô lại má em hồng
Ôi! Tình đời!
Tình đời vẫn tuyệt vời Anh nhỉ?
Ta vá lại gần nửa phần thế kỷ
Khoảng trống tâm hồn – khoảng trống không nhau
Đi tìm nhau vòng quanh nửa địa cầu
Để vá lại mối tình son trẻ
Để vá lại - Những tháng ngày buồn tẻ
Cho vần thơ lấp lánh ánh trăng tròn.
Hà Nội những ngày cuối thu 2013
Bùi Nguyệt CHLB Đức
Bùi Nguyệt CHLB Đức
MUA GIANG SINH 2013
Thứ Tư, 11 tháng 12, 2013
Một góc thu – một góc nhớ về Hà Nội trong thơ Bùi Nguyệt
Một góc thu – một góc nhớ về Hà Nội trong thơ Bùi Nguyệt
Trong
bốn mùa, hình như mùa Thu đem đến cho con người nhiều bâng khuâng,
nhiều nỗi niềm, nhiều trăn trở… nhất là những người sống và làm việc xa
nhà, xa quê, xa đất nước lâu ngày. Tôi chợt nghĩ thế sau khi đọc hai tập
thơ của Bùi Nguyệt: “Bến xa và Hồn núi”. Đọc vội, cảm vội vì mãi sáng
hôm qua 27/8, mới nhận được hai tập thơ chị gửi tặng.
Mùa Thu trong thơ Bùi Nguyệt là mùa của cảm thức nhớ nhung, xa cách, cũng là mùa của người trải lòng cho ngày về:
- “Ôi - da diết ngày dài thu lạnh
Đếm lá rơi tính đến ngày về...”
Đếm lá rơi tính đến ngày về...”
(Nhớ ngày về)
Vâng,
người tha hương nào chẳng vậy. Dù có đi tận chân trời góc biển thì lòng
vẫn luôn canh cánh nghĩ tới ngày về, cho ngày về. Về nơi hoa sữa tỏa
hương Thu, nơi cành bàng nhuộm lá đỏ trước những dãy phố cổ rêu phong.
Ấy là nơi ắp đầy kỷ niệm:
- “Hà Nội ơi! Những chiều lộng gió
Nắng thu về nhuộm cây bàng lá đỏ
Thoáng đưa hương hoa sữa tỏa bên hồ
Lớp rêu phong phố cổ bao đời
(Hà Nội ơi – Hồn núi)
Nơi ấy có mặt hồ Thu in dấu thời xanh trẻ từng có cuộc tiễn đưa:
- “Hàng cây xanh soi bóng Thiền Quang
Phố Nguyễn Du hoa sữa nồng nàn
Quyện mái tóc bay chiều thu lạnh
Tiếng còi tàu, lưu luyến vào Nam
(Nhớ Hà Nội – Bến xa)
Ở
bài “Hương cốm”, nhà thơ không hề nhắc tới hai từ mùa Thu, nhưng đọc
hai câu thơ sau đây chúng ta vẫn nhận ra đó là đắc trưng một mùa Thu Hà
Nội:
- “Vẳng tiếng rao “Ai cốm” đầu mùa/
Gánh hàng nhỏ vai gày mẹ bước”.
Đó là mùa trăm nhớ nghìn thương của người đi xa, ở xa nhớ về Hà Nội.
Ảnh Võ Thi Nhung
Mấy
năm gần đây, mỗi tháng một lần tôi thường đi tắt qua ngõ An Trạch, phố
Đoàn Thị Điểm, phường Quốc Tử Giám, quận Đông Đa. Đi sinh hoạt nhóm Bích
Câu Thơ bên phố Cát Linh. Hào Nam, An Trạch xưa kia là hai làng cổ của
Hà Nội. Giờ hai làng này không còn mang tên đơn vị làng như xưa nữa
nhưng mỗi khi qua đây tôi vẫn có cảm giác như đi giữa một ngôi làng,
giữa ngoằn ngoèo những ngõ, những vòng cua các con ngõ, xe phải luồn
lách mà đi trong dấu tích ngồi làng cổ An Trạch và Hào Nam. Ngôi nhà của
Bùi Nguyệt chính là đất làng An Trạch xưa đó. Mỗi lần trở về “Mái nhà
xưa” chị nâng mình nhờ làn gió thu chắp cánh:
- “Lang thang ở nơi miền đất khách
Gió thu nâng chắp cánh em về…”
Gió thu nâng chắp cánh em về…”
Rồi hằng đêm trong thao thiết nhớ nhung, cả trong giấc ngủ chị cũng mơ trở về nhà mình, ngõ nhỏ ấy vào một ngày thu:
- “Trong giấc mơ đêm trắng vào thu
Trong giá lạnh hoang tàn trống trải…”
Về với thành phố thân thương của mình bằng nhịp đập của trái tim hàng ngày trăn trở:
- “Hoa sữa tỏa hương khi thu đến
Soi bóng mặt hồ những lứa đôi”
(Hẹn ngày về) – Bến xa)
Về với:
- “ Chiếc lá cuối thu ngời trong nắng
Trong không gian nơi ấy lặng im”
(Hát ru – Hồn núi)
Về với:
- “Liễu vờn gỡ tóc mãi không nguôi
Lam chiều vương vấn hòa sương khói”
Ngày về - Bến xa)
Về lại nơi:
- “Lá me rơi mái tóc vấn vương
Làn môi run chưa một lần trao gửi”
(Thuở ấy- Bến xa)
Mùa Thu Hà Nội là thế, luôn đau đáu trong tâm tưởng những ngày xa… Mai em về:
- “Để má em hồng lại dưới chiều Thu ”./.
Hoàng Xuân Họa
Chủ Nhật, 8 tháng 12, 2013
ĐỐI THOẠI - vanhocquenha
Nhà thơ, nhà văn người Việt Nam đang định cư ở Đức canh cánh trong lòng tình yêu quê hương đất nước
"Thơ là món ăn, điểm tựa tinh thần của tôi"
(Toquoc)-
Dù sống ở đâu, ở quốc gia nào thì thơ văn vẫn là nguồn động viên tinh
thần không thể thay thế cho những người Việt xa quê. Trong một lần trở
về Việt Nam, tác giả Bùi Nguyệt hiện sống và làm việc tại thành phố Chemnitz, CHLB Đức tâm sự về ý nghĩa của thơ trong cuộc sống hàng ngày
|
PV. Là một người Việt
sống ở nước ngoài mà vẫn đau đáu về nước, thường xuyên sáng tác và mới
đây là giới thiệu hai tập thơ “Hồn núi” và “Bến xa” dạt dào tình cảm với
quê hương, đất nước, nếu chia sẻ với độc giả về quá trình đến với thơ,
chị sẽ nói gì?
Bùi Nguyệt:
Nói theo lý luận văn học thì: Văn học là tấm gương phản chiếu hiện
thực. Hiện thực ấy đi qua lăng kính của nhà văn, được các nhà văn nhào
nặn, khắc họa bằng ngôn ngữ nghệ thuật, trở thành sản phẩm tinh thần.
Vâng! Quy trình làm thơ của tôi cũng không ngoài quy luật ấy.
Cuộc
sống ở nước ngoài từ 25 năm nay đã dạy tôi nhiều bài học về thế giới
quan, nhân sinh quan. Tôi đã thực sự hiểu được cái khao khát tình quê
hương, cái trăn trở, những nội tâm của những người Việt đang sống ở nước
ngoài. Từ đó hai tập thơ "Hồn núi" và " Bến xa" đã ra đời.
PV. 25 năm sống ở nước
ngoài và tới nay, thơ ca giúp đỡ gì chị trong cuộc sống và trong công
việc hàng ngày? Theo chị, để có được những vần thơ hay, người làm thơ
cần có những yếu tố gì?
Bùi Nguyệt: Thơ là món ăn, điểm tựa tinh thần của tôi. Như nhà thơ Phùng Quán có câu:
..."Những lúc ngã lòng tôi vịn câu thơ mà đứng dậy..."
Thơ
làm tăng niềm yêu thương, khát vọng vươn tới CHÂN - THIỆN - MỸ trong tư
duy, trong hành động. Để có được những vần thơ hay người làm thơ cần
nắm chắc về Thi pháp, về những biện pháp tu từ... và tất nhiên phải yêu
thương thật sự, buồn vui thật sự, có nghĩa là con tim phải rung động
thật sự trước hiện thực khách quan cuộc sống
PV. Là hội viên Hội
VHNT Việt tại thành phố Chemnitz, CHLB Đức, chị thấy tình hình hoạt động
văn học nghệ thuật hiện nay của văn sĩ Việt Nam tại nước bạn ra sao?
Trong tình hình kinh tế khó khăn như hiện nay, họ gặp những khó khăn gì
trong cuộc sống và trong sáng tác?
Bùi Nguyệt: Tôi chỉ xin nói riêng về những nhà thơ, nhà
văn người Việt Nam đang định cư ở Đức: Ai cũng canh cánh trong lòng
tình yêu quê hương đất nước, ai cũng tự hào mình là con Lạc cháu Hồng.
Ai cũng muốn viết về quê hương đất nước của mình, viết về những điều tốt
đẹp, ca ngợi những nhân tố tích cực trong xã hội, đồng thời cũng góp
phần hạn chế những điều tiêu cực. Có thể nói những người cầm bút chúng
tôi rất tự hào và luôn gìn giữ bản sắc dân tộc Việt. Mọi hoạt động văn
học nghệ thuật đều nhằm mục đích đó.
PV. Hiện ở thành phố Chemnitz, CHLB Đức đã có tác phẩm văn học Việt Nam nào tới được tay độc giả yêu văn học Việt Nam?
Bùi Nguyệt: Tôi nghĩ rằng tất cả những tác phẩm đã được
đăng tải trên các báo mạng và được in ấn có mặt trên nước Đức đều đến
được với các độc giả người Việt đang định cư ở đây. Và cũng có nhiều tác
phẩm đã được dịch sang tiếng Đức và đã được các độc giả người Đức đón
nhận. Như một số tác phẩm; "Truyện Kiều" của Nguyễn Du; "Nỗi buồn chiến
tranh" của Bảo Ninh, "Đất lửa" của Nguyễn Quang Sáng .v.v...
PV. Để thúc đẩy giao lưu văn học giữa hai nước Đức với Việt Nam, chị sẽ làm gì?
Bùi Nguyệt: Văn học là cầu nối văn hóa các nước. Để
thúc đẩy sự giao lưu văn hóa giữa hai nước, trước hết là tại vùng tôi
đang sống thì tôi và các bạn tôi đã và đang truyền bá văn hóa Việt Nam
nói chung và những tác phẩm văn học nói riêng trên nước Đức, tổ chức
những buổi giao lưu, gặp gỡ…
Đức Anh thực hiệnTheo nguon: vanhocquenha
Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013
CAFE CHIỀU ĐÔNG
CAFE
CHIỀU ĐÔNG
Thân
tặng Bùi Nguyệt
Từng giọt
Từng giọt
Cafe rơi vào tĩnh lặng
Hồ Thuyền Quang gợn sóng
Mắt lá buồn se sắt giữa
chiều đông
Quán đông người nhưng một
ghế trống không
Không ai nỡ chen vào kỷ
niệm
Gió đầu mùa trút lá
vàng xao xuyến
Như con thuyền chở ký ức
xa xôi
Từng giọt
Từng giọt cafe rơi
Như khơi dậy những nỗi
buồn hoang hoải
Ơi vị đắng sao nghe
lòng tê tái
Gió rùng mình rồi khe
khẽ bay đi
Cafe ơi! Cafe.
Anh đối diện với một miền
trống vắng
Nuôi hy vọng đến một
ngày nắng ấm
Cafe thơm ngan ngát một
nụ cười
Hà
Nội 6.12.2014
Thi
Thi
Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013
Anh chup Hoi nghi PNVN Tai Phu Chu Tich
Chu tich Truong Tan Sang tang ky niem chuong cho Bui Nguyet
Doan PNVN Tai CHLB Duc
Phu Chu Tich ngay 20/ 11/ 2013
Doan dai bieu PNVN o 28 nuoc tren the gioi chup anh tai Phu Chu Tich
Tham luận của bà Bùi Nguyệt (Chemnitz, CHLB Đức) tại Hội nghị Phụ nữ người Việt Nam ở nước ngoài
| ||||||||||
|
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)