THU HỒ GƯƠM
Mặt nước hồn thu in bóng cây
Tháp Rùa trầm mặc dưới trời mây
Lăn tăn sóng gợn rung cành rủ
Thấp thoáng trăng cài quện tóc bay
Ngọn Bút vươn cao tô vẻ đẹp
Trang thơ mở rộng thấu tình say
Hồ Gươm chứng kiến bao huyền thoại
Níu bước người đi nhớ chốn này.
Bùi Nguyệt - Chemnitz
-------------
ĐỌC “THU HỒ GƯƠM” CỦA TÁC GIẢ BÙI NGUYỆT
Tôi mới đến trang Nguoiviet.de, nên chưa biết nhiều về trang này, cũng
chưa đọc nhiều thơ của Bùi Nguyệt. Bài thơ đầu tiên tôi đọc của Bùi
Nguyệt là bài THU HỒ GƯƠM, tôi đọc ngày 10/10/2014. Bùi Nguyệt với tôi
hoàn toàn là một người bạn mới.
Cho nên tôi không thể nói gì nhiều về tác giả, chỉ phân tích riêng bài THU HỒ GƯƠM để chia sẻ cùng tác giả và các bạn gần xa.
Hồ Gươm là một di tích lịch sử, là trái tim của Thủ đô Hà Nội.
Hồ Gươm từ ngàn xưa đã để lại bao thi hứng trong thơ ca.
Bài thơ THU HỒ GƯƠM của Bùi Nguyệt nguyên cái tựa đề THU HỒ GƯƠM đã nói
lên rằng mặt Hồ Gươm trong trẻo trong xanh tình tứ như mùa thu.
Bài
thơ THU HỒ GƯƠM của Bùi Nguyệt viết bằng thể thơ đường luật thất ngôn
bát cú gồm 56 chữ, 8 câu. Viết theo thể luật trắc vần bằng.
Toàn bài
thơ nói về một khung cảnh mùa thu ngày nay xung quanh Hồ Gươm Hà Nội
thật hữu tình tràn đầy niềm tin và nỗi nhớ. Đồng thời lý giải về ý nghĩa
một Hồ gươm huyền thoại trong lòng dân tộc Việt Nam, khẳng định một
tình yêu quê hương, yêu Hà Nội của chính tác giả cũng như của toàn dân
tộc.
Bài thơ viết thóang, hồn thơ nhẹ nhõm như những làn gió mùa thu
mơn man làn tóc ai bay. Bằng cách dùng những từ ngữ tượng hình tượng
thanh cho ta thấy một mùa thu Hồ Gươm thanh bình gợi nhớ.
Gieo thông vận, vần thoáng, tự do, bài thơ vần điệu giàu thanh nhạc, trữ tình.
Bài thơ có một bố cục như bao bài thơ đường luật khác. Rõ ràng bốn phần
đề, thực, luận, kết. Về nhịp điệu 4/3 chuẩn, tứ thơ nhẹ nhàng, câu chữ
đẹp.
Hai câu đề giới thiệu chủ đề của bài thơ: Khung cảnh mùa thu ở Hồ Gươm Hà Nội.
“Mặt nước hồn thu in bóng cây
Tháp Rùa trầm mặc dưới trời mây”
Một cảnh tượng huyền hoặc giữa Tháp Rùa, những bóng cây soi bóng mặt
nước hồ. Chắc nó lung linh lắm, mê hồn lắm trong lòng du khách, mà tác
giả là người nắm bắt được điều này để đưa vào thơ. Thơ và cảnh như được
thẩm thấu: mặt nước trong veo in bóng cây hòa vào tâm hồn con người tạo
nên một “hồn thu”. Một Tháp Rùa đứng sừng sững “trầm mặc” dưới “trời
mây” nghe nao nao.
Ngay ở câu đầu chúng ta đã nhận ra chữ “in” vướng
vào nhất ngũ tam bất luật ở chữ thứ 5. Người ta nói chỉ nên dùng bất
luật ở chứ thứ 1, hoặc 3 chứ không nên dùng bất luật ở chữ thứ 5 trong
mỗi câu. Hoặc để tránh bệnh “khổ độc” không dùng những chữ thứ 3 bất
luật trong các câu 2 và 6 cho một bài thơ luật bằng, không dùng chữ thứ 3
bất luật trong câu 4 cho một bài thơ luật trắc. Bởi nó làm câu thơ đọc
ngang mất đi phần nào sự quyến rũ. Giống như ta đang đi mà gặp phải một
bức tường chắn ngang vậy!
Nhưng không hiểu sao khi đọc chữ “in”
trong câu đầu này tôi lại muốn giữ nó, không muốn thay bất kỳ từ nào
khác, bởi nó làm mặt hồ lung linh nhẹ bẫng cả tâm hồn. Một chữ “in” làm
trong veo mặt nước hồ thu, còn gì bằng? Tôi nghĩ các bạn cũng cảm nhận
như vậy khi đọc chữ “in” này! Tại sao tác giả không nói “hồ thu” mà lại
nói “hồn thu”? Phải chăng hồ thu chưa đủ ý? Còn “hồn thu” là thu đã đi
vào tâm hồn, tắm mát hồn ta? Hồn thu làm nên một tứ thơ hay hơn, nên thơ
hơn. Làm ta gợi ta nhớ đến QUA ĐÈO NGANG của Bà HuyệnThanh Quan
Từ “trầm mặc” tác giả lồng vào khung cảnh rất thấm. Tháp Rùa trầm mặc là
làm sao? Thế nào là trầm mặc? Trầm mặc hiểu nôm na là trầm tư.
Tóm
lại hai câu thơ đầu bằng phương pháp dùng từ tượng hình (bóng cây,trầm
mặc) và từ ẩn dụ (hồn thu) tác giả đã phác họa được khung cảnh mùa thu
Hồ Gươm tuyệt sắc, một “hồn thu” lay động cả không gian.
Tiếp theo là hai câu thực:
« Lăn tăn sóng gợn rung cành rủ
Thấp thoáng trăng cài quện tóc bay»
Tác giả cũng dùng hình ảnh tượng hình (lăn tăn, gợn, rung, rủ, thấp
thoáng, cài, quện, bay), từ láy (lăn tăn, thấp thoáng) để diễn tả một
sức sống mê hồn, ở đây tác giả đã thổi hồn người vào cảnh, cảnh không
còn trầm mặc như hai câu trước mà nó xao động tràn đầy sự sống. Sóng gợn
lăn tăn, trăng lung linh hòa quyện, cành lá rung rinh rủ bóng và dù
không nói đến ai chúng ta cũng như hình dung ra một dánh hình một thiếu
nữ duyên dáng thả làn tóc bay trước gió giữa chiều thu bên hồ! Tác giả
dùng từ “trăng cài” rất khéo và có ý nghĩa. Với tứ thơ nồng nàn, với
cách ví von lung linh, khiến người đọc vừa say vừa sảng khoái, lâng
lâng…
Về kỹ thuật ở cặp thực này tường đôi ổn, chỉnh đối, đúng niêm luật.
Về đối của hai câu thực này:
Đối chữ, nghĩa, ý:
Lăn tăn/ sóng gợn - rung cành rủ
Thấp thoáng/ trăng cài - quện tóc bay
Đối ý đối, đối chữ, đối nghĩa đều chuẩn đạt từng từ, từng cụm từ đối nhau.
Đối thanh:
BB TT BB T
TT BB TT B
Đối thanh cũng chuẩn.
Như vậy trong bốn câu thơ đầu tác giả đã diễn tả được trọn vẹn một
khung cảnh nên thơ hữu tình của Hồ Gươm huyền dịu dưới trăng thanh bên
một Tháp Rùa trầm mặc.
Bây giờ chúng ta chuyển sang hai câu luận:
Hai câu luận lý giải những cảnh vật (cụ thể là Ngọn Bút) tô lên vẻ đẹp
cuốn hút lòng tác giả và từ đó đi vào trang thơ ngọt ngào say đắm khơi
gợi tình yêu quê hương đất nước con người.
« Ngọn Bút vươn cao tô vẻ đẹp
Trang thơ mở rộng thấu tình say »
Về kỹ thuật ổn, chỉnh đối, đúng niêm luật.
Ngọn Bút là một cái Tháp Bút sừng sững kia, nhưng cũng có thể hiểu là
cây bút của nhà thơ nên đối với « trang thơ » hoàn toàn thú vị…
Phần
luận cụm ”trang thơ” chưa hẳn là trang thơ mà có thể đó là cảnh sắc
nên thơ, khung cảnh nên thơ mà tác giả đã ví von, liên tưởng. Đó chính
là sự tinh tế của tác giả. Cũng là góc nhìn mở của người đọc.
Về đối trong cặp luận này:
Đối ý, chữ, nghĩa :
Ngọn Bút vươn cao tô vẻ đẹp
Trang thơ mở rộng thấu tình say
Đối chỉnh từng chữ, từng nghĩa, từng ý
Đối thanh:
TT BB TT B
BB TT BB T
Đối thanh chuẩn.
Như vậy sáu câu thơ trên đã tô lên một vẻ đẹp trọn vẹn cả về cảnh về
người cả trong ý thơ, tất cả đã tạo nên những tứ thơ nồng nàn tình yêu
đắm say, nỗi nhớ ngọt ngào mà tác giả dành cho HÀ NỘI nói chung và THU
HỒ GƯƠM nói riêng.
Tất cả gói vào một câu kết thắm chặt nghĩa tình của du khách muôn phương:
“Hồ Gươm chứng kiến bao huyền thoại
Níu bước người đi nhớ chốn này”
Hồ Gươm với những Tháp Rùa, Bút Tháp, cầu Thê Húc, những con đường rợp
bóng cây bên Hồ Gươm, tự trong lòng nó từ bao đời nay là cả những câu
chuyện huyền thoại không ai dễ gì quên, nơi uy nghiêm, linh thiêng chứa
chan niềm hi vọng người đến nguyện cầu, nơi có những câu chuyện về Rùa
Vàng, Gươm Thần giúp dân trừ giặc. Nơi trầm mặc, nên thơ hữu tình thiên
nhiên gợi nhớ. Nơi mà bây giờ “níu” bước chân người đi nôn nao “nhớ chốn
này”. Ở hai câu kết này tôi thích từ “níu bước”.
Toàn bộ bài thơ
lay động tâm tình, nhẹ nhàng thanh thoát, như nhịp sống nên thơ quyến
rũ. Giá trị ấy đã cho ta hình dung ra được THU HỒ GƯƠM đã thực sự đi
vào tình yêu nỗi nhớ của tác giả với mùa thu Hà Nội.
HOÀNG GIAO - 20/10/2014