Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

VỀ CÁC LỖI, CÁC BỆNH TRONG BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT - PHẠM VĂN DƯƠNG Chủ nhiệm CLB Thơ Đường luật Phạm Đạo Phú

VỀ CÁC QUY ĐỊNH TRONG THỂ THƠ ĐƯỜNG LUẬT
(tiếp theo kỳ trước)
II. VỀ CÁC LỖI, CÁC BỆNH TRONG BÀI THƠ ĐƯỜNG LUẬT
Ngoài 4 lỗi không được phép vi phạm là thất luật, thất niêm, thất đối, lạc vận (vì nếu vi phạm thì bài thơ không còn là đường luật nữa), người ta còn chỉ ra nhiều lỗi khác rất khắt khe mà người làm thơ chỉ sơ ý chút là mắc phải. Người ta thường nói đến 12 lỗi, ngoài 4 lỗi “chính” nêu trên, còn các lỗi sau:
Lỗi 5. Điệp từ (hay Trùng từ): Bài thơ chỉ có 56 từ, cần cố tận dụng để 56 từ đó khác nhau, không nên dùng 1 từ nhiều lần, trừ khi muốn cố tình nhấn mạnh hoặc dùng từ kép điệp ngữ. Nếu từ dùng trùng là chữ vần thì gọi là điệp vận. Trường hợp 2 từ cùng âm khác nghĩa không coi là điệp từ, điệp vận, nhưng không nên để gần nhau, khó đọc.
Lỗi 6: Điệp ý : Ý dùng rồi mà còn dùng lại ở chỗ khác, dù đã dùng từ khác đi. Nếu lỗi trùng ý nằm trong cặp câu thực, hoặc cặp câu luận thì gọi là hiệp chưởng (câu trên câu dưới đối nhau mà nghĩa giống nhau như hai bàn tay úp lại).
Lỗi 7. Điệp thanh: Trong thơ thất ngôn, một câu có 4 từ thanh bằng và 3 từ thanh trắc hoặc bốn từ thanh trắc và ba từ thanh bằng. Những từ thanh bằng hay trắc đó phải có thanh độ khác nhau thì câu thơ mới giàu âm điệu. Ví dụ câu thơ có 4 từ thanh bằng thì chỉ nên dùng 2 từ có dấu huyền (trầm bình thanh), dùng 3 hoặc cả 4 từ có dấu huyền làm câu thơ yếu ớt, giọng trầm trầm khó nghe. Ngược lại nếu dùng nhiều từ không dấu (phù bình thanh) sẽ làm câu thơ nghe ngang ngang không êm dịu.
Lỗi 8. Điệp điệu : Nhiều câu liên tiếp ngắt nhịp cùng một cách. Lỗi này thường hay xảy ra ở các câu giữa của bài thơ.
Lỗi 9. Điệp âm: Những chữ có cùng âm đứng gần nhau trong một câu (trừ khi dùng từ kép láy), hoặc cùng vị trí trong hai câu.
Lỗi 10. Khổ độc : Trong một bài thất ngôn, từ thứ ba, thứ năm các câu đáng là từ thanh bằng mà làm ra từ thanh trắc. Theo “luật bất luận” thì việc này không “thất luật”, nhưng đặc biệt từ thứ 5 nếu sai thanh (kể cả đáng là thanh trắc mà làm ra thanh bằng) đọc lên nghe rất chối tai.
Lỗi 11. Lạc đề: Trong bài có những câu, những ý không ăn nhập với chủ đề của toàn bài, không ăn nhập với nhan đề.
Lỗi 12. Mạ đề (hay phạm đề): Có những từ trong các cập câu thực, cặp câu luận trùng với nhan đề.
Cùng với 12 lỗi, người ta còn chỉ ra 8 bệnh trong bài thơ Đường luật. Đó là các quy định rất rắm rối, khắt khe mà người làm thơ rất dễ mác phải:
1. Bệnh phong yêu: Từ thứ hai và chữ thứ bảy trong cùng một câu thơ có cùng dấu thanh. “Phong yêu” là cái lưng con ong, nếu mắc bện này thì
cảm giác câu thơ bị thắt lại ngang lưng.
2. Bệnh Hạc Tất: Từ thứ bốn và từ thứ bảy trong cùng một câu thơ có cùng dấu thanh. “Hạc tất” là cái gối con hạc, nếu mắc bệnh này thì cảm giác câu thơ bị gập ở giữa, đọc lên thiếu êm tai.
3. Bệnh Đại Vận: Từ thứ 4 và từ thứ 7 trong cùng 1 câu trùng vận với nhau:
4. Bệnh Tiểu Vận: Tương tự như bệnh Đại Vận nhưng bệnh Tiểu Vận xét ở từ thứ 2 và thứ 7
5. Bệnh Bình Đầu: Trong 3 từ đầu của các câu thơ, nếu các từ cùng vị trí ở bốn câu liên tiếp có cùng từ loại
6. Bệnh Thượng Vỹ: Trong 3 từ cuối của các câu thơ, nếu từ cùng vị trí ở bốn câu liên tiếp có cùng từ loại.
7. Bệnh Chánh Nữu: Trong cùng một câu có nhiều từ cùng phụ âm đầu.
8. Bệnh Bàng Nữu: Trong 2 câu liên tiếp có nhiều từ cùng một phụ âm đầu.
Một số quy định về lỗi, bệnh đều có LÝ của nó, nếu tránh được thì bài thơ có giá trị hơn, uyển chuyển hơn, nhịp điệu thanh thoát êm tai hơn... Tuy nhiên, cái gì QUÁ cũng có mặt trái không hay, GÒ BÓ QUÁ mất hết thi hứng, thậm chí phải bỏ qua các ý đẹp, lời hay, tứ đắt... thì thực phí. Bài thơ hay cốt nhất ở ý tứ sâu xa, gửi gắm cái gì đó có ý nghĩa vào những con chữ (tất nhiên phải mang đúng đặc trưng thơ Đường luật), KHÔNG NÊN QUÁ KHẮT KHE, CỐ THEO CHO ĐƯỢC CÁC QUI ĐỊNH RẮC RỐI BẰNG MỌI GIÁ.
Có một số “lỗi”, “bệnh” gắn liền với tiễng Việt la tinh hóa chứ nguyên gốc chữ Hán tượng hình và thanh âm tiếng Bắc Kinh làm gì có. Ví dụ “bệnh phong yêu”, “bệnh hạc tất”, “lỗi điệp thanh”… do dấu thanh (6 dấu thanh trong tiếng Việt). Âm Bắc Kinh chỉ có 4 thanh, 3 trắc, 1 bằng, thế thì các câu có chữ thứ 7 thanh bằng mà chữ thứ 2 (hoặc thứ 4) cũng bắt buộc thanh bằng thì lấy đâu ra để mà đảm bảo khác nhau (do tiếng Việt có 2 thanh bằng là không dấu và dấu huyền thì mới tránh trùng dấu thanh được). Nói thế không có nghĩa là ta bỏ qua các “lỗi”, “bệnh” đó. Ta cần có nhiều lựa chọn để bài thơ hoàn hảo nhất có thể.
Vì vậy, những người làm thơ Đường luật cần CỐ GẮNG TỐI ĐA KHÔNG PHẠM CÁC QUY ĐỊNH CƠ BẢN NHẤT (cấu trúc, luật, niêm, đối, vận ...), nhưng KHÔNG NHẤT THIẾT PHẢI TUÂN THEO HẾT CÁC QUI ĐỊNH GÒ BÓ NGƯỜI TA GÁN CHO THƠ ĐƯỜNG LUẬT.
Hiện nay có một phần mềm Mộc gia trang kiểm tra các bài thơ Đường luật, chỉ ra các “lỗi”, “bệnh” bài thơ mắc phải. Người làm ra phần mềm này vừa có hiểu biết về thơ Đường luật, vừa có trình độ lập trình. Tuy nhiên, đã là máy móc thì có những chỗ cứng nhắc và không phân biệt được các cách sử dụng từ phong phú của con người.
Người làm thơ Đường luật hoặc người biên tập dùng phần mềm kiểm tra bài thơ sẽ phát hiện được các “lỗi”, “bệnh” do sơ ý mắc phải, kịp thời chỉnh sửa cho hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, có những “lỗi”, “bệnh” phần mềm chỉ ra không đúng hoặc không nhất thiết phải sửa bằng mọi giá, đừng khiên cưỡng quá. Xin đưa ra đây một số ví dụ các bài thơ sau khi kiểm tra bằng phần mềm này, người ta chỉnh sửa bằng mọi giá và kiểm tra lại “không còn lỗi nào”, nhưng bài thơ sau khi sửa có câu, có chữ hay hơn cũ, cũng có câu, có chữ quá gò bó khiên cưỡng, làm mất ý hay của tác giả… Thà cứ để như cũ lại tốt hơn.
Ví dụ 1. Bài thơ ban đầu của tác giả A:
“THƠ BÁC TRÊN SÔNG
Sáng ngời khuôn nguyệt giữa trời không
Bóng núi hình mây thấp thoáng lồng
Vỗ mạn dập dềnh từng đợt sóng
Khua chèo sóng sánh cả lòng sông
Thơ rằm Bác đọc sâu tình nghĩa
Trăng sáng trời soi rực sắc hồng
Thuyền chở trí nhân đầy ánh sáng
Con đường cách mạng mở mênh mông”
Bài thơ cơ bản là đạt yêu cầu, có ý, tứ , cảm xúc, từ ngữ sáng sủa, đúng luật, niêm, vận, đối… Khiếm khuyết là dùng lặp lại các từ “sáng”, “trời”, “sóng “… (do sơ ý chứ không phải có dụng ý để nhấn mạnh). Bài chỉ có 56 chữ, dùng được càng nhiều chữ khác nhau càng phong phú
Một người biên tập sử sụng phần mềm Mộc gia trang kiểm tra, máy chỉ ra các lỗi, bệnh sau:
-Trùng từ: sáng, trời, sóng
- Điệp thanh: câu 2
-Tiểu vận: câu 1
-Chánh nữu: câu 4,6,8
- Bàng nữu: câu 3,4,5,6,8
Người biên tập đã sửa lại bài thơ đó (thay vào các chữ mới nét đậm):
“THƠ BÁC TRÊN SÔNG
Sáng ngời khuôn nguyệt giữa thinh không
Bóng núi hình mây ẩn hiện lồng
Vỗ mạn dập dềnh từng đợt sóng
Khua chèo lóng lánh cả dòng sông
Thơ rằm Bác đọc sâu tình nghĩa
Trăng rạng trời soi rực sắc hồng
Thuyền chở trí nhân đầy ánh bạc
Con đường cứu quốc rộng mênh mông”.
Kiểm tra lại, máy thông báo bài thơ sau khi sửa không còn một lỗi nào
Nhận xét:
- Sửa từ “thinh”, từ “lóng lánh” là tốt, khăc phục được luôn mấy từ trùng.
- Từ “ẩn hiện” sửa đúng luật, tránh “lỗi điệp thanh”, nhưng đọc lên lại thấy gợn, thà cứ để “thấp thoáng”, câu có 4 dấu sắc mà đọc lại thấy êm tai hơn, chưa kể từ “thấp thoáng” có vẻ “thơ” hơn từ “ẩn hiện”
- Câu 6 để “trăng sáng” mắc “bệnh chánh nữu” (cả câu 5 nữa thành 4 từ cùng phụ âm S đứng đầu) nhưng vẫn hay hơn là “trăng rạng” (còn nếu tránh dùng lại từ “sáng” thì thay chữ “rạng” vào câu 1). Cũng vậy, câu 8, “con đường cách mạng” rộng nghĩa hơn “con đường cứu quốc”, đừng vì “bệnh chính nữu” mà thay đổi.
Qua ví dụ này, thấy cái gọi là “ lỗi Điệp thanh”, “bệnh Chánh nữu” do máy chỉ ra không cần phải sửa tất cả. Để như cũ lại hay hơn!
Ví dụ 2. Bài thơ ban đầu của tác giả B:
“ĐẸP CHO ĐỜI
Trời ban khéo léo ở đôi tay
Uốn tỉa, tạo hình nên dáng cây
Kìa thế long thăng thân uốn khúc
Đây hình phượng vũ cánh dang bay
Bốn mùa hoa lá khoe hương sắc
Một dãy núi non phô nước mây
Ý tưởng hữu tình Chân-Thiện-Mỹ
Hiến đời cảnh đẹp sống mê say!”
Bài thơ cơ bản là đạt yêu cầu, có ý, tứ , cảm xúc, sử dụng các từ ngữ chuyên dùng của người chơi sinh vật cảnh, đúng luật, niêm, đối, vận… Khiếm khuyết là dùng lặp lại các từ “uốn”, “hình”, (do sơ ý chứ không phải có dụng ý để nhấn mạnh) và một vài câu khổ độc.
Một người biên tập sử sụng phần mềm Mộc gia trang kiểm tra, máy chỉ ra các lỗi sau:
“-Trùng từ: uốn, hình
- Phong yêu: câu1, 3
-Hạc tất: câu 5, 6
-Tiểu vận: câu 6
-Chánh nữu: câu 3, 6”
Người biên tập đã sửa lại bài thơ đó (thay vào các chữ mới nét đậm):
“ĐẸP CHO ĐỜI
Duyên trời khéo léo ở đôi tay
Uốn tỉa, vin cành tạo dáng cây
Kìa thế rồng vươn thân khúc cuộn
Đây hình phượng múa cánh dang bay
Bốn mùa hoa nụ khoe hương sắc
Một rặng núi đồi khỏa nước mây
Ý tưởng hữu tình Chân-Thiện-Mỹ
Hiến đời cảnh đẹp sống mê say!”
Kiểm tra lại, máy thông báo bài thơ sau khi sửa không còn một lỗi nào
Nhận xét:
- Sửa câu 2 tránh được trùng từ “hình”, lại tránh được khổ độc là tốt.
- Sửa câu 6 tránh được hạc tất, chánh nữu, khổ độc, cũng tốt.
- Câu 1,5 sửa để tránh “ phong yêu, hạc tất” nhưng không hay. “Trời ban” có ý hay, không thể thay là “duyên trời”. Từ “hoa nụ” hơi ép, thà cứ để “hoa lá” hay hơn.
- Câu 3,4 không nên sửa các từ “long thăng, phượng vũ” là từ quen dùng của người chơi sinh vật cảnh, đừng ngại chính nữu. Còn tránh điệp từ “uốn” thì thay bằng “cuộn” là tốt, vừa tránh được phong yêu.
Ở đây các “lỗi”, “bệnh” do máy đưa ra máy móc quá, không nhất thiết phải sửa tất cả, mất đi ý của tác giả, để như cũ hay hơn.
Còn rất, rất nhiều ví dụ về việc sửa các “lỗi”, “bệnh”, nhưng đưa ra quá rườm rà. Hai ví dụ trên đã nói về các “lỗi”, “bệnh” phong yêu, hạc tất, điệp thanh, chánh nữu… rồi. Về “lỗi tiểu vận”, có câu thơ về anh bộ đội về hưu, ban đầu của tác giả C là:
“Thời trẻ mài gươm gìn đất nước
Tuổi già luyện bút họa thi ca”
Người biên tập theo máy, đã sửa thành;
Thời trẻ mài gươm gìn đất nước
Tuổi nhiều luyện bút họa thi ca
Đúng là sửa được “lỗi tiểu vận”, nhưng lại kém đi, “nhiều” sao đối được với “trẻ”?
Tất nhiên còn phụ thuộc vào trình độ người biên tập sửa “lỗi” “bệnh”, nhưng thực tế là có bằng ấy từ, muốn tránh “lỗi”, “bệnh” thì phải tìm từ tương đương phù hợp thanh, âm… để thay thế mà không phải bao giờ cũng tìm được từ đạt yêu cầu. Người làm thơ Đường luật cứ bị ám ảnh phải tránh cho hết các “lỗi”, “bệnh” rất rắc rối đó thì có khi không dám làm thơ Đường luật nữa. Người biên tập cũng theo máy móc đó mà chỉnh sửa thơ của người khác thì “lợn lành hóa lợn què”. Vì vậy, người viết bài này chỉ muốn gửi một thông điệp là không nên quá câu nệ, không nên cố theo các quy định rối rắm người ta gán cho thơ Đường luật bằng mọi giá. Các bậc danh sĩ như Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… đâu có tránh cho hết các “lỗi”, “bệnh” này mà sao thơ hay thế?
PHẠM VĂN DƯƠNG
Chủ nhiệm CLB Thơ Đường luật Phạm Đạo Phú

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét